Skip to content

DFS

Khái quát

DFS (Depth-First Search) là thuật toán duyệt đồ thị để khám phá và tìm đường đi trên cấu trúc dữ liệu đồ thị hoặc cây.

Ý tưởng chính của thuật toán là xuất phát từ một đỉnh nào đó và đi đến đỉnh xa nhất có thể, trước khi quay lui về để duyệt tiếp các đỉnh khác.

Ví dụ:
Duyệt cây gia phả bằng DFS, ta có thể có một đường đi như sau:

Đường đi:
Ông sơ → Ông tổ → Ông cố → Ông nội → Ba → Mình → Con mình → Cháu mình → Chắt mình → Chút mình → Chít mình

Mỗi đối tượng trong đường đi trên là một đỉnh. Tại đỉnh (đối tượng) hiện hành, DFS không duyệt tiếp những đối tượng cùng thế hệ, mà duyệt tiếp một đối tượng thuộc thế hệ tiếp theo. Chẳng hạn:

  • Ông nội sinh ra ba người con là Bác, BaChú.
  • Tại đỉnh Ông nội, DFS không duyệt những người cùng thế hệ với Ông nội, mà duyệt một trong những đỉnh của thế hệ kế tiếp, ví dụ như Ba.
  • Từ Ba, duyệt đỉnh của thế hệ kế tiếp, có thể là Anh mình, có thể là Mình, có thể là Em mình.
  • Cứ như thế, đi đến một đỉnh của thế hệ xa nhất có thể, trước khi quay về thế hệ liền trước để duyệt các đỉnh còn lại của thế hệ liền trước đó.
---
title: Minh họa một đường đi khi duyệt bằng DFS
---

graph TD
    ong_noi([Ông nội]):::currentNode --> bac([Bác])
    ong_noi ==> ba([Ba]):::currentNode
    ong_noi --> chu([Chú])

    ba --> anh([Anh mình])
    ba ==> minh([Mình]):::currentNode
    ba --> em([Em mình])

    minh ==> con_1([Con 1]):::currentNode
    minh --> con_2([Con 2])

    con_1 ==> chau_1([Cháu 1]):::currentNode
    con_1 --> chau_2([Cháu 2])

%% Link Color %%
linkStyle 1,4,6,8 stroke: #0694eb

classDef currentNode color:#fff, fill: #0694eb

Các bước thực hiện

Thuật toán DFS có thể thực hiện bằng đệ quy hoặc stack. Các bước sau đây được thể hiện theo cách đệ quy.

Gọi đỉnh đang xét là đỉnh current.

Duyệt các đỉnh v kề với đỉnh current, lặp các thao tác:

  • Nếu đỉnh v chưa ghé thăm:
    • Thực hiện các thao tác nào đó theo yêu cầu tại đỉnh v.
    • Đánh dấu đỉnh v đã ghé thăm.
    • Xem đỉnh v là đỉnh current mới, gọi đệ quy đối với v để thực hiện lại bước 2.

Mã giả cho mô tả trên như sau:

function dfs(current):
    for v in các_đỉnh_kề_của_đỉnh_current:        
        if v not in visited:
            do_something(v)
            visited.append(v)
            dfs(v)

Bài toán

Yêu cầu

Tìm một đường đi từ đỉnh xuất phát đến đỉnh đích. Trả về -1 nếu không có đường đi.1

Input

10 11 1 5
1 2
1 3
2 3
2 4
3 5
3 7
3 8
4 6
7 8
8 5
9 10

Output

1 2 3 5

Giải thích

Đồ thị có 10 đỉnh, 11 cạnh. Yêu cầu tìm đường đi từ đỉnh 1 đến đỉnh 5.

Đường đi tìm được: 1 → 2 → 3 → 5.

---
title: Đồ thị của bài toán ví dụ
---
graph LR
    1([1]) --> 2([2]) & 3([3])
    2 --> 3 & 4([4])
    3 --> 5([5]) & 7([7]) & 8([8])
    4 --> 6([6])
    7 --> 8 --> 5
    9([9]) --> 10([10])

Cách giải đề xuất

Khởi tạo

Trong bài này, ta muốn in ra đường đi theo trình tự từ đỉnh xuất phát đến đỉnh đích. Cho nên, ta không chỉ đánh dấu các đỉnh đã ghé thăm, mà còn phải lưu vết và truy vết.

Do đó, thay vì sử dụng mảng visited, ta sử dụng mảng trace, với trace[u] = v, nghĩa là liền trước đỉnh u là đỉnh v, hoặc nói cách khác, có đường đi từ v đến u.

Ban đầu, ta khởi tạo mảng trace gồm toàn các phần tử 0, nghĩa là các đỉnh đều chưa có đỉnh liền trước. Riêng đỉnh xuất phát được gán -1.

1
2
3
4
5
6
7
8
void init()
{
    // Khởi tạo mảng trace gồm toàn 0, nghĩa là tất cả đỉnh đều chưa có đỉnh liền trước
    trace.resize(vertex + 1, 0);

    // Trước đỉnh start không có đỉnh nào
    trace[start] = -1;
}
1
2
3
4
5
6
7
8
def init():
    global trace

    # Khởi tạo mảng trace gồm toàn 0, nghĩa là tất cả đỉnh đều chưa có đỉnh liền trước
    trace = [0] * (vertex + 1)

    # Trước đỉnh start không có đỉnh nào  
    trace[start] = -1

Thực hiện DFS

Hàm dfs() có một tham số là current dùng để chỉ đỉnh đang xét ở mỗi lần gọi đệ quy. Trong lần đầu tiên gọi hàm dfs(), ta truyền vào tham số là đỉnh xuất phát, gọi là đỉnh start:

    dfs(start);
    dfs(start)

Hàm dfs() hoạt động như sau:

Dùng vòng lặp để duyệt các đỉnh kề với đỉnh current (dựa trên danh sách kề A), lặp các thao tác:

  • Giả sử u là một đỉnh kề đang duyệt. Dựa trên mảng trace để xét xem u đã ghé thăm chưa.

    • Nếu u chưa ghé thăm: trace[u] == 0 thì đánh dấu u được ghé thăm từ đỉnh current: trace[u] = current
    • Gọi đệ quy dfs(), truyền vào tham số là đỉnh u. (Nghĩa là tiến thêm một nấc theo ý tưởng đi xa nhất có thể.)
void dfs(int current)
{
    // Duyệt các đỉnh kề với đỉnh current
    for (vector<int>::iterator i = A[current].begin(); i != A[current].end(); ++i)
    {
        // Nếu đỉnh *i chưa ghé thăm thì đánh dấu ghé thăm *i bằng mảng trace
        // rồi xem *i là đỉnh gốc, gọi đệ quy đối với đỉnh *i
        if (!trace[*i])
        {
            trace[*i] = current;
            dfs(*i);
        }
    }
}
def dfs(current):
    global A, trace

    # Duyệt các đỉnh kề với đỉnh current
    for u in A[current]:
        # Nếu đỉnh u chưa ghé thăm thì đánh dấu ghé thăm u bằng mảng trace
        # rồi xem u là đỉnh gốc, gọi đệ quy đối với đỉnh u
        if not trace[u]:
            trace[u] = current
            dfs(u)

Sau khi hàm dfs() hoàn tất, mảng trace được điền đầy đủ như sau:

Đỉnh u 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
trace[u] -1 1 2 2 3 4 3 7 0 0

Xuất output

Nếu dựa vào mảng trace để in ra đường đi thì trình tự sẽ bị ngược: 5 ← 3 ← 2 ← 1. Do đó, ta giải quyết tình huống này bằng cách: nạp các đỉnh của đường đi vào ngăn xếp, gọi ngăn xếp là path, rồi duyệt path để in ra.

Cách nạp các đỉnh của đường đi vào path như sau:

1. Dùng vòng lặp while:

  • Dựa vào mảng trace, cho biến tmp_finish xuất phát từ đỉnh đích (đỉnh finish) lùi dần về đỉnh xuất phát (đỉnh start).
  • Ứng với mỗi lần lùi, ta nạp đỉnh tmp_finish vào path.
    // Khai báo ngăn xếp path lưu các đỉnh của đường đi cần tìm
    stack<int> path; 

    // Dùng tmp_finish để không làm mất giá trị của finish khi truy ngược
    int tmp_finish = finish;

    // Nếu có đường đi đến đỉnh finish thì mới thực hiện truy ngược trace
    if (trace[tmp_finish])
    {
        // Dựa vào mảng trace, cho tmp_finish "lùi" dần về start
        while (tmp_finish != start)
        {
            // Trong khi chưa đụng đỉnh start, thì nạp đỉnh tmp_finish vào đường đi
            path.push(tmp_finish);

            // "Lùi" tmp_finish về đỉnh liền trước đó
            tmp_finish = trace[tmp_finish];
        }

        // Nạp đỉnh start vào đường đi
        path.push(start);
    }

    # Khai báo stack path lưu các đỉnh của đường đi cần tìm
    path = deque() # (1)!

    # Dùng tmp_finish để không làm mất giá trị của finish khi truy ngược
    tmp_finish = finish

    # Nếu có đường đi đến đỉnh finish thì mới thực hiện truy ngược trace
    if trace[tmp_finish]:
        # Dựa vào mảng trace, cho tmp_finish "lùi" dần về start
        while tmp_finish != start:
            # Trong khi chưa đụng đỉnh start, thì nạp đỉnh tmp_finish vào đường đi
            path.append(tmp_finish)

            # "Lùi" tmp_finish về đỉnh liền trước đó
            tmp_finish = trace[tmp_finish]

        # Nạp đỉnh start vào đường đi
        path.append(start)

  1. Module collections của Python không có kiểu stack. Thay vào đó, deque dùng để biểu diễn cả queue lẫn stack.

Lưu ý

Stack ở đây chỉ dùng cho mục đích lật ngược/đảo chiều trình tự hiển thị của đường đi, chứ không nhất thiết phải đúng kiểu dữ liệu stack. Ta có thể sử dụng bất kỳ kiểu dữ liệu nào miễn là tiện lợi, có hỗ trợ đảo chiều, chẳng hạn như: kiểu vector đối với C++ hoặc list đối với Python. Chúng chúng đều có hàm reverse() hoặc đều có thể duyệt ngược bằng vòng lặp for.

Cũng liên quan điều trên, chương trình có thể được viết theo hướng khác tốt hơn. Chương trình trong bài này chỉ có tính đề xuất, có vẻ là một pha xử lý cồng kềnh, chủ yếu để người học luyện ngón.

2. Sau khi có ngăn xếp path, ta in ra đường đi bằng cách:

Dùng vòng lặp while để duyệt path, lặp các thao tác:

  • In ra phần tử nằm ở đầu của path.
  • Xóa bỏ phần tử này.
    // Nếu không có phần tử nào trong ngăn xếp path
    // thì in ra -1, nghĩa là không có đường đi
    if (path.empty())
    {
        cout << -1;
    }
    else
    {
        // Trong khi ngăn xếp path vẫn còn phần tử
        while (!path.empty())
        {
            // thì in ra phần tử nằm ở đầu ngăn xếp
            cout << path.top();

            // nếu ngăn xếp path còn hơn một phần tử thì in dấu phân cách
            if (path.size() != 1)
                cout << " --> ";

            // rồi xóa bỏ phần tử đầu ngăn xếp này
            path.pop();
        }
    }
1
2
3
4
5
6
7
8
    # Nếu không có phần tử nào trong ngăn xếp path
    # thì in ra -1, nghĩa là không có đường đi
    if len(path) == 0:
        f.write(str(-1))
    else:
        # Đảo chiều của path rồi ghép thành chuỗi
        output_path = ' --> '.join([str(u) for u in reversed(path)])
        f.write(output_path)

Mã nguồn

Code đầy đủ được đặt tại GitHub.

Nhận xét chung

DFS không dùng để tìm ra đường đi ngắn nhất, mà chỉ dùng để tìm đường liên thông, nghĩa là có đường đi hoặc không có đường đi.

Có thể có nhiều đường đi từ đỉnh start đến đỉnh finish, nhưng DFS luôn trả về đường đi có thứ tự từ điển nhỏ nhất.

So sánh DFS và BFS

Cả hai thuật toán đều được dùng để duyệt đồ thị hoặc cây. Độ phức tạp đều là \(O(số đỉnh + số cạnh)\).

Những điểm khác nhau được thể hiện trong bảng sau:

DFS BFS
Chiến lược Đi đến đỉnh xa nhất của riêng một nhánh trước khi quay lui. Đi hết các đỉnh trong cùng cấp, rồi mới đến các đỉnh ở cấp khác.
Ưu tiên duyệt đỉnh Ưu tiên duyệt sâu hơn ưu tiên các đỉnh anh em. Ưu tiên các đỉnh anh em cùng cấp hơn ưu tiên cấp tiếp theo.
Cấu trúc dữ liệu sử dụng Đệ quy, ngăn xếp Hàng đợi
Bộ nhớ Trong trường hợp xấu nhất, đồ thị phức tạp, có thể dẫn đến tràn bộ nhớ do gọi đệ quy quá nhiều. Thường sử dụng nhiều bộ nhớ hơn do phải lưu tất cả đỉnh trong cùng một cấp.
Khả năng hoàn tất Có thể không hoàn tất nếu gặp phải đồ thị có chu trình (đường đi tuần hoàn giữa các đỉnh). Hoàn tất được, miễn là đồ thị có số đỉnh hữu hạn và các đỉnh đều liên thông.
Thứ tự các đỉnh của đường đi kết quả Có thứ tự từ điển nhỏ nhất (trong số các lời giải). Có thứ tự khoảng cách tăng dần tính từ đỉnh xuất phát.
Đường đi ngắn nhất Không đảm bảo tìm được đường đi ngắn nhất. Đảm bảo tìm được đường đi ngắn nhất đối với đồ thị không trọng số.
Ứng dụng Tìm đường trong mê cung, phát hiện chu trình, khám phá các cây có kích thước lớn. Tìm đường trong mê cung, tìm đường đi ngắn nhất, giải đố, phân tích mạng.

  1. Lê Minh Hoàng, Giải thuật và lập trình. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, 1999-2002.