BFS¶
Khái quát¶
BFS (Breadth-First Search) là thuật toán duyệt đồ thị để khám phá hoặc tìm đường đi trên cấu trúc dữ liệu đồ thị hoặc cây.
Ý tưởng chính của thuật toán là xuất phát từ một đỉnh nào đó, duyệt các đỉnh khác theo hướng lan rộng ra.
Nói cách khác, thuật toán này duyệt hết các đỉnh kề (hoặc cùng cấp) với đỉnh đang xét, rồi mới duyệt tiếp các đỉnh ở cấp tiếp theo. Vì thế, thuật toán này còn được gọi là thuật toán loang.
Ví dụ:
Xét cây gia phả bằng BFS, ta có trình tự duyệt như sau:
Ông cố →
Ông bác → Ông nội → Ông chú →
Các con của ông bác → Các con của ông nội (bác, ba, chú) → Các con của ông chú →
Các con của bác (anh họ 1, anh họ 2) → Các con của ba (anh, mình, em) → Các con của chú (em họ 1, em họ 2)
---
title: Một phần trình tự khi duyệt bằng BFS
---
graph LR
subgraph "Thế hệ 1"
direction LR
ong_noi([Ông nội])
end
subgraph "Thế hệ 2"
direction LR
bac([Bác]) --> ba([Ba]) --> chu([Chú])
end
subgraph "Thế hệ 3"
direction LR
anh([Anh]) --> minh([Mình]) --> em([Em])
end
subgraph "Thế hệ 4"
direction LR
con_1([Con 1]) --> con_2([Con 2])
end
ong_noi --> bac
chu --> anh
em --> con_1
Các bước thực hiện¶
Trước hết, chọn một đỉnh làm đỉnh gốc để xuất phát, gọi là đỉnh start
. Nạp đỉnh start
vào hàng đợi và đánh dấu đỉnh start
đã ghé thăm.
Thuật toán BFS có thể thực thi bằng hàng đợi như sau:
Duyệt hàng đợi, trong khi hàng đợi vẫn còn phần tử để duyệt, thì lặp thao tác:
- Lấy phần tử nằm ở đầu ra khỏi hàng đợi, gọi là đỉnh
current
. - Duyệt các đỉnh
v
kề với đỉnhcurrent
, lặp các thao tác:- Nếu đỉnh
v
chưa ghé thăm thì:- Thực hiện các thao tác nào đó theo yêu cầu tại đỉnh
v
. - Đánh dấu đỉnh
v
đã ghé thăm. - Nạp đỉnh
v
vào hàng đợi.
- Thực hiện các thao tác nào đó theo yêu cầu tại đỉnh
- Nếu đỉnh
Mã giả cho mô tả trên như sau:
function bfs():
enqueue(start)
visited.append(start)
while queue is not empty:
current = dequeue(phần_tử_đầu_queue)
for v in các_đỉnh_kề_của_đỉnh_current:
if v not in visited:
do_something(v)
visited.append(v)
enqueue(v)
Bài toán¶
Yêu cầu¶
Tìm một đường đi từ đỉnh xuất phát đến đỉnh đích. Trả về -1 nếu không có đường đi.1
Input¶
Output¶
Giải thích¶
Đồ thị có 10 đỉnh, 11 cạnh. Yêu cầu tìm đường đi từ đỉnh 1 đến đỉnh 5.
Đường đi tìm được: 1 → 3 → 5.
---
title: Đồ thị của bài toán ví dụ
---
graph LR
1([1]) --> 2([2]) & 3([3])
2 --> 3 & 4([4])
3 --> 5([5]) & 7([7]) & 8([8])
4 --> 6([6])
7 --> 8 --> 5
9([9]) --> 10([10])
Cách giải đề xuất¶
Khởi tạo¶
Trong bài này, ta muốn in ra đường đi theo trình tự từ đỉnh xuất phát đến đỉnh đích. Cho nên, ta không chỉ đánh dấu các đỉnh đã ghé thăm, mà còn phải lưu vết và truy vết.
Do đó, thay vì sử dụng mảng visited
, ta sử dụng mảng trace
, với trace[u] = v
, nghĩa là liền trước đỉnh u
là đỉnh v
, hoặc nói cách khác, có đường đi từ v
đến u
.
Ban đầu, ta khởi tạo mảng trace
gồm toàn các phần tử 0
, nghĩa là các đỉnh đều chưa có đỉnh liền trước. Riêng đỉnh xuất phát được gán -1
.
Thực hiện BFS¶
-
Nạp đỉnh
start
vào hàng đợiq
. -
Dùng vòng lặp while để duyệt hàng đợi
q
, trong khiq
vẫn còn đỉnh để duyệt, thì lặp thao tác:- Lấy ra đỉnh nằm ở đầu hàng đợi
q
, gọi làcurrent
. -
Dùng vòng lặp để duyệt các đỉnh kề với đỉnh
current
(dựa trên danh sách kềA
), lặp các thao tác:- Giả sử
u
là một đỉnh kề đang xét. Dựa trên mảngtrace
để xét xemu
đã ghé thăm chưa.- Nếu
u
chưa ghé thăm:trace[u] == 0
thì đánh dấuu
được ghé thăm từ đỉnhcurrent
:trace[u] = current
. - Nạp đỉnh
u
vào hàng đợiq
để... đợi (!!!) đến lượt mình trở thànhcurrent
. (Nghĩa là đỉnhu
chuẩn bị trở thành "mắt xích" tiếp theo cho tiến trình loang/lây lan/lan rộng.)
- Nếu
- Giả sử
- Lấy ra đỉnh nằm ở đầu hàng đợi
Sau khi hàm bfs()
hoàn tất, mảng trace
được điền đầy đủ như sau:
Đỉnh u |
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
trace[u] |
-1 | 1 | 1 | 2 | 3 | 4 | 3 | 3 | 0 | 0 |
Xuất output¶
Nếu dựa vào mảng trace
để in ra đường đi thì trình tự sẽ bị ngược: 5 ← 3 ← 1. Do đó, ta giải quyết tình huống này bằng cách: nạp các đỉnh của đường đi vào ngăn xếp, gọi ngăn xếp là path
, rồi duyệt path
để in ra.
Cách nạp các đỉnh của đường đi vào path
như sau:
1. Dùng vòng lặp while:
- Dựa vào mảng
trace
, cho biếntmp_finish
xuất phát từ đỉnh đích (đỉnhfinish
) lùi dần về đỉnh xuất phát (đỉnhstart
). - Ứng với mỗi lần lùi, ta nạp đỉnh
tmp_finish
vàopath
.
- Module
collections
của Python không có kiểu stack. Thay vào đó,deque
dùng để biểu diễn cả queue lẫn stack.
Lưu ý
Stack ở đây chỉ dùng cho mục đích lật ngược/đảo chiều trình tự hiển thị của đường đi, chứ không nhất thiết phải đúng kiểu dữ liệu stack
. Ta có thể sử dụng bất kỳ kiểu dữ liệu nào miễn là tiện lợi, có hỗ trợ đảo chiều, chẳng hạn như: kiểu vector
đối với C++ hoặc list
đối với Python. Chúng chúng đều có hàm reverse()
hoặc đều có thể duyệt ngược bằng vòng lặp for.
Tương tự, queue trong hàm bfs()
chỉ dùng để minh hoạ việc duyệt theo hàng đợi. Ta hoàn toàn có thể sử dụng những kiểu dữ liệu khác miễn là phù hợp, có hỗ trợ lấy phần tử ra ở đầu và nạp phần tử vào cuối.
Cũng liên quan điều trên, chương trình có thể được viết theo hướng khác tốt hơn. Chương trình trong bài này chỉ có tính đề xuất, có vẻ là một pha xử lý cồng kềnh, chủ yếu để người học luyện ngón.
2. Sau khi có ngăn xếp path
, ta in ra đường đi bằng cách:
Dùng vòng lặp while để duyệt path
, lặp các thao tác:
- In ra phần tử nằm ở đầu của
path
. - Xóa bỏ phần tử này.
Mã nguồn¶
Code đầy đủ được đặt tại GitHub.
Nhận xét chung¶
Vì BFS duyệt các đỉnh theo từng cấp/từng thế hệ, hết cấp trên mới đến cấp dưới tiếp theo, nên hàng đợi của BFS chứa các đỉnh theo thứ tự cấp/thế hệ tăng dần, trong cùng cấp thì thứ tự các đỉnh cũng tăng dần. Bằng cách này, hàng đợi trở thành trình tự duyệt của tất cả đỉnh. Nói cách khác, một đỉnh muốn biết khi nào đến lượt mình, tính từ đỉnh xuất phát, thì "nhìn" vào hàng đợi.
Cũng vì thế, kết quả của BFS chính là đường đi ngắn nhất từ đỉnh xuất phát đến một đỉnh nào đó. Điều này đúng với đồ thị không có trọng số và sai đối với đồ thị có trọng số.
So sánh DFS và BFS¶
Cả hai thuật toán đều được dùng để duyệt đồ thị hoặc cây. Độ phức tạp đều là \(O(số đỉnh + số cạnh)\).
Những điểm khác nhau được thể hiện trong bảng sau:
DFS | BFS | |
---|---|---|
Chiến lược | Đi đến đỉnh xa nhất của riêng một nhánh trước khi quay lui. | Đi hết các đỉnh trong cùng cấp, rồi mới đến các đỉnh ở cấp khác. |
Ưu tiên duyệt đỉnh | Ưu tiên duyệt sâu hơn ưu tiên các đỉnh anh em. | Ưu tiên các đỉnh anh em cùng cấp hơn ưu tiên cấp tiếp theo. |
Cấu trúc dữ liệu sử dụng | Đệ quy, ngăn xếp | Hàng đợi |
Bộ nhớ | Trong trường hợp xấu nhất, đồ thị phức tạp, có thể dẫn đến tràn bộ nhớ do gọi đệ quy quá nhiều. | Thường sử dụng nhiều bộ nhớ hơn do phải lưu tất cả đỉnh trong cùng một cấp. |
Khả năng hoàn tất | Có thể không hoàn tất nếu gặp phải đồ thị có chu trình (đường đi tuần hoàn giữa các đỉnh). | Hoàn tất được, miễn là đồ thị có số đỉnh hữu hạn và các đỉnh đều liên thông. |
Thứ tự các đỉnh của đường đi kết quả | Có thứ tự từ điển nhỏ nhất (trong số các lời giải). | Có thứ tự khoảng cách tăng dần tính từ đỉnh xuất phát. |
Đường đi ngắn nhất | Không đảm bảo tìm được đường đi ngắn nhất. | Đảm bảo tìm được đường đi ngắn nhất đối với đồ thị không trọng số. |
Ứng dụng | Tìm đường trong mê cung, phát hiện chu trình, khám phá các cây có kích thước lớn. | Tìm đường trong mê cung, tìm đường đi ngắn nhất, giải đố, phân tích mạng. |
-
Lê Minh Hoàng, Giải thuật và lập trình. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, 1999-2002. ↩